TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO VIỆT NAM 2016-2021


VIỆT NAM là nước có tiềm năng đặc biệt lớn ở việc khai thác các nguồn " Năng lượng tái tạo" như: Thủy điện, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối,... Trong đó, thủy điện được tập trung phát triển gần như tối đa tại Việt Nam.

    Tính đến cuối năm 2018, thủy điện là nguồn năng lượng chủ lực của nước ta, chiếm tới hơn 40% tổng công suất điện quốc gia. Loại trừ thủy điện cỡ vừa và lớn, thủy các dạng năng lượng tái tạo khác (bao gồm thủy điện nhỏ) chiếm 2,1% trong tổng công suất toàn hệ thống., tuy nhiên, không có gì là bất biến trước sự thay đổi của thời gian.

    Tính đến giữa năm 2019, hơn 80 nhà máy điện mặt trời đã được vận hành, đóng lưới nhờ vào cơ chế hỗ trợ giá FIT, trong khi cuối năm 2018 mới chỉ có 2 nhà máy điện mặt trời quy mô không lớn được đấu nối lên lưới điện. Vào thời điểm đó, tổng công suất điện mặt trời là hơn 4460 MW, chiếm hơn 8% tổng công suất phát điện của hệ thống.

    Trong khi đó, cuối năm 2018 tổng công suất điện gió trên Việt Nam mới chỉ đạt mức 228 MW, tuy nhiên đến năm 2019, số lượng dự án điện gió đang trong giai đoạn xây dựng với tổng công suất cao gấp 2 lần so với năm 2018. Đối với năng lượng sinh khối, việc sản xuất điện thương mại vẫn còn phát triển chậm do vấn đề về giá hỗ trợ cho bã mía. Tuy vậy, triển vọng cho việc phát triển nguồn năng lượng này còn khả quan dựa vào số lượng ngày càng tăng của rác thải đô thị và nông nghiệp, sản phẩm lâm nghiệp và chính phủ đang nghiên cứu "TIÊU CHUẨN DANH MỤC ĐẦU TƯ TÁI TẠO" để có thể thúc đẩy nguồn năng lượng này.

I. SƠ LƯỢC CÁC DỰ ÁN NỔI BẬT VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN:

    Có sự sụt giảm về chi phí sản xuất năng lượng sạch trong vài năm trở lại đây. Cả năng lượng mặt trời và năng lượng gió đều đang trải qua việc giảm chi phí sản xuất trung bình. Sự sụt giảm được dự đoán sẽ mạnh mẽ hơn trong thập kỷ tiếp theo.

    Với khả năng chi trả ngày càng tăng, việc sản xuất và sử dụng năng lượng tái tạo ngày càng được mở rộng. Bên cạnh sản xuất điện năng, các ứng dụng này còn cung cấp giải pháp mới cho việc đảm bảo an ninh năng lượng toàn cầu.

    Thị trường xe điện đang phát triển nhanh chóng, dẫn đầu là Trung Quốc, tiếp theo là châu Âu và Hoa Kỳ. Các quốc gia như Ấn Độ đã đặt ra mục tiêu điện khí hóa toàn quốc vào năm 2030. Đây là một trong những giải pháp giúp ổn định việc tiêu thụ năng lượng. Bên cạnh đó, còn có những giải pháp khả thi như sự kết hợp với điện nhiệt và điện gió, quản lý lưới điện bằng ắc quy tiện ích và lưu trữ năng lượng thay thế một cách hợp lý.

    Với những yếu tố tích cực mà năng lượng tái tạo đem lại Việt Nam là một trong những nước có có tiềm năng về năng lượng tái tạo cao và ngày càng được các nhà đầu tư chú ý và đầu tư phát triển những dự án tầm cỡ

1.DỰ ÁN NĂNG LƯỢNG MẶT TRỜI:


Hình 1.1 Nhà máy điện mặt trời Trung Nam Thuận Nam 450MW.

     ·         Tháng 10/2020,dự án điện mặt trời Trung Nam Thuận Nam 450MW lớn nhất nước và Đông Nam Á cùng hệ thống trạm biến áp, truyền tải 500kV đầu tiên do tư nhân đầu tư đã khánh thành sau 102 ngày đêm thực hiện.

 ·         Tháng 9/2019, cụm nhà máy điện mặt trời Dầu Tiếng đã chính thức hòa lưới điện quốc gia với công suất 420 MW sau hơn 10 tháng thi công, cung cấp khoảng 688 triệu KW/h mỗi năm.

·         Tháng 4/2019, 3 cụm nhà máy điện mặt trời của Tập đoàn BIM (bao gồm 30 MWP BIM 1, 250 MWP BIM 2 và 50 MWP BIM 3; tổng công suất 330 MWP) tại tỉnh Ninh Thuận đã đóng điện thành công vào lưới điện quốc gia. Dự án được đầu tư 7.000 tỉ đồng, lắp đặt hơn 1 triệu tấm pin mặt trời.

  ·         Ngày 4/11/2018, nhà máy điện mặt trời TTC Krông Pa công suất 49 MW (69 MWP) tại tỉnh Gia Lai, sau 9 tháng xây dựng với tổng vốn đầu tư lên tới 1.400 tỉ đồng, đã đóng điện thành công.
 
    ·         Ngày 25/09/2018, nhà máy điện mặt trời Phong Điền ở tỉnh Thừa Thiên Huế đã đóng điện thành công lên lưới điện quốc gia. Đây là nhà máy điện đầu tiên tại Việt Nam với công suất 35 MW. Dự kiến năm 2019, nhà máy sẽ mở rộng thêm công suất 29,5 MW với diện tích 38,5 ha, đáp ứng một phần nhu cầu tiêu thụ điện trong tương lai.

    VIỆT NAM là một trong các nước nằm trong dải phân bổ ánh nắng mặt trời nhiều nhất trong năm trên bản đồ bức xạ của thế giới. Đó là cơ sở rất lớn để Việt Nam phát triển năng lượng mặt trời.



Hình 1.2  Bức xạ nhiệt ở VIỆT NAM nguồn EVN.



Bảng 1. sản lượng năng lượng mặt trời thống kê một số tình thành từ 2015-2020 (số liệu nguồn EVN).

2.DỰ ÁN NĂNG LƯỢNG ĐIỆN GIÓ:

  • Nhà máy điện gió Hoà Bình: Trụ Turbine gió của hãng Vestas Đan Mạch mỗi trụ công suất 3,8MW-4,0MW cùng với hệ thống nhà điều hành, hạ tầng trạm biến áp đồng bộ hoàn chỉnh.

Hình 2.1 Hình ảnh nhà máy điện gió hoà bình.

            Nhà máy điện gió Phú Lạc: Tại xã Phú Lạc, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Giai đoạn 1 của dự án, do Công ty Cổ phần Phong điện Thuận Bình đầu tư, có công suất 24 MW, tổng mức đầu tư là 1.089 tỷ đồng.

    Tiềm năng gió ở Việt Nam ở độ cao 65m:

  


Bảng 2. Tiềm năng phát triển điện gió ở Việt Nam (số liệu nguồn EVN).

3.DỰ ÁN NĂNG LƯỢNG THUỶ ĐIỆN:

    Với địa hình chủ yếu là đồi núi và các vùng đồng bằng châu thổ, VIỆT NAM có rất nhiều những con sông lớn phù hợp cho việc xây dựng các công trình, nhà máy thủy điện. Một số công trình thủy điện được xếp vào hàng lớn nhất khu vực Đông Nam Á như nhà máy thủy điện Sơn La, nhà máy thủy điện Hòa Bình
  • Nhà máy thủy điện Hòa Bình:

            Công suất: 1.920 MW

            Điện năng: 8,16 tỉ KW

Trước khi nhà máy thủy điện Sơn La được xây dựng thì đây được xem như nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á. Nhà máy đã được nhà nước khen và tặng thưởng rất nhiều danh hiệu như 24 huy chương lao động hạng nhì, 2 cúp bạc chất lượng Việt Nam, 5 cờ luân lưu của Chính phủ,... Công trình thủy điện Hòa Bình đã góp phần quan trọng trong việc phòng chống lũ ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và cung cấp nước tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp, cung cấp điện năng cho hệ thống lưới điện quốc gia.

  • Nhà máy thủy điện Lai Châu: 

    Nhà máy thủy điện Lai Châu sẽ cung cấp mỗi năm lên lưới điện quốc gia khoảng 4.670,8 triệu KWh. Đây là công trình thủy điện không những có vai trò quan trọng trong việc phát triển điện, cung cấp nước cho đồng bằng sông Hồng về mùa khô mà còn tạo cơ hội cho việc phát triển kinh tế, xã hội tại hai tỉnh Lai Châu và Điện Biên, đảm bảo an ninh quốc phòng khu vực Tây Bắc.

4.ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG:

4.1 Tiềm năng điện mặt trời:




Hình 4.1 Biểu đồ thông kê tiềm năng điện mặt trời ở Việt Nam.

Tiềm năng năng lượng mặt trời cũng được đánh giá cao khi Việt Nam là quốc gia có thời gian nắng nhiều trong năm với cường độ bức xạ lớn ở các khu vực miền Trung, miền Nam. Các tỉnh Tây Bắc (Lai Châu và Sơn La) số giờ nắng trong năm khoảng 1897 - 2102 giờ/năm. Các tỉnh phía Bắc còn lại và một số tỉnh từ Thanh Hóa đến Quảng Bình khoảng 1400 - 1700 giờ/năm. Các tỉnh từ Huế vào miền Nam khoảng 1900 - 2700 giờ/năm.

    Theo đánh giá, những vùng có số giờ nắng từ 1.800 giờ/năm trở lên thì được coi là có tiềm năng để khai thác sử dụng. Đối với Việt Nam, thì tiêu chí này phù hợp với nhiều vùng, nhất là các tỉnh phía Nam.

    Theo EVN, tính đến giữa tháng 4/2019, toàn hệ thống điện chỉ có 4 nhà máy điện mặt trời với tổng công suất chưa tới 150 MW. Chỉ trong vòng hơn 2 tháng, đến 30/6/2019 đã có trên 4.464 MW điện mặt trời đã hòa lưới, trong số đó có 72 nhà máy điện mặt trời thuộc quyền điều khiển của Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia (A0) với tổng công suất 4.189 MW và 10 nhà máy điện thuộc quyền điều khiển của các Trung tâm điều độ miền với tổng công suất 275 MW. Như vậy, nguồn điện mặt trời đã chiếm tỷ lệ 8,28% công suất đặt của hệ thống điện Việt Nam.

    Dự kiến, từ nay đến cuối năm 2019, A0 sẽ tiếp tục đóng điện đưa vào vận hành thêm 13 nhà máy điện mặt trời, với tổng công suất 630 MW, nâng tổng số nhà máy điện mặt trời trong toàn hệ thống lên 95 nhà máy.

    Đây là sự bổ sung quý giá đối với hệ thống trong điều kiện nguồn điện đang khó khăn, tuy nhiên một số lượng lớn các nhà máy điện mặt trời đi vào vận hành trong thời gian ngắn đã và đang gây không ít khó khăn, thách thức cho công tác vận hành hệ thống điện. Nguyên nhân là do tính chất bất định, phụ thuộc vào thời tiết của loại hình nguồn điện này. Bên cạnh đó, việc phát triển nóng và ồ ạt các dự án điện mặt trời tập trung tại một số tỉnh như Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắk Lắk đã gây ra hiện tượng quá tải lưới 110 kV, 220 kV tại các khu vực trên.

4.2 Tiềm năng điện gi:

Hình 4.2 Biểu đồ thông kê tiềm năng điện gió trên bờ ở Việt Nam.



Hình 4.3 Biểu đồ thông kê tiềm năng điện gió bờ biển ở Việt Nam.

    Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa và bờ biển dài hơn 3.200 km, hơn nữa còn có cả gió mùa Tây Nam thổi vào mùa hè, tốc độ gió trung bình ở biển Đông Việt Nam khá mạnh. Vì vậy, nhờ vào vị trí địa lý mà tiềm năng về năng lượng gió ở Việt Nam là rất triển vọng. Việt Nam là nước có tiềm năng năng lượng gió tốt nhất trong 4 nước (Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam) với 39% lãnh thổ có tốc độ gió lớn hơn 6m/s tại độ cao 65 m, tương đương với 513 GW. Đặc biệt, hơn 8% lãnh thổ, tương đương 112 GW được đánh giá là có tiềm năng năng lượng gió tốt.

      Ước tính trên đất liền, Việt Nam có thể phát triển khoảng 30 GW điện gió. Cùng với tiềm năng điện gió ngoài khơi, chúng ta có thể phát triển khoảng 100 GW công suất điện gió.

      Hiện có 9 nhà máy/trang trại điện gió đang vận hành với tổng công suất 304,6 MW (Bảng 2), trong đó lớn nhất là trang trại điện gió Bạc Liêu với gần 100 MW, nhỏ nhất là nhà máy điện gió Phú Quý 6 MW nối lưới độc lập (không nối lưới điện quốc gia) trên đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận, còn lại là 7 nhà máy điện gió quy mô công suất nhỏ dưới 50 MW.


Bảng 3 bảng tổng hợp các trang trại điện gió đang vận hành tính đến cuối năm 2020( nguồn EVN).

    Bên cạnh đó, 18 dự án nhà máy/trang trại điện gió đã được khởi công và đang trong quá trình xây dựng với tổng công suất 812 MW (Bảng 3), trong đó có 2 dự án có công suất từ 100 MW trở lên là Bạc Liêu 3 và Khai Long (Cà Mau), còn lại 16 dự án có quy mô công suất nhỏ từ 20 MW đến 65 MW.

    Ngoài ra, theo quy hoạch phát triển điện gió giai đoạn đến 2020, có xét đến năm 2030, tiềm năng công suất dự kiến hơn 22.000 MW, chi tiết của một số tỉnh như sau: Bình Thuận 1.570 MW, Ninh Thuận 1.429 MW, Cà Mau 5.894 MW, Trà Vinh 1.608 MW, Sóc Trăng 1.155 MW, Bạc Liêu 2.507 MW, Bến Tre 1.520 MW, Quảng Trị 6.707 MW. Tuy nhiên, từ tiềm năng đến hiện thực luôn có khoảng cách, nhưng khoảng cách về điện gió ở Việt Nam lại “quá xa” mà nguyên nhân do có quá nhiều rào cản, khó khăn về pháp lý, kỹ thuật, tài chính, nhân lực và chủ đầu tư dự án.

4.2 Tiềm năng thuỷ điện:


Hình 4.3 Số lượng dự án thuỷ điện theo lưu vực sông Việt Nam (Nguồn: PanNature, 2010)

    Với số lượng dự án và công suất hiện có, Việt Nam được đánh giá là nước đứng đầu Đông Nam Á về khai thác thủy điện (Lê Thị Nguyện, 2011). Năm 2012, thủy điện chiếm tới 43,5% tổng lượng điện sản xuất tại Việt Nam so với 6,7% ở Malaysia, 6,5% ở Indonesia, và 5,3% ở Thái Lan. Trung Quốc - mặc dù thủy điện xây dựng khá rầm rộ nhưng lượng điện cung cấp từ loại hình này cũng chỉ chiếm 17,3% so với tổng nguồn cung cấp năng lượng (World Bank, 2015).

    Hệ thống sông ngòi của Việt Nam dày đặc, được phân bố trên nhiều vùng lãnh thổ khác nhau. Tiềm năng thủy điện nhỏ phân bố tập trung chủ yếu ở các vùng núi phía Bắc, Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Thủy điện vẫn là nguồn năng lượng tái tạo có công suất cao nhất, đóng góp khoảng 40% vào tổng công suất điện quốc gia. Tiềm năng thuỷ điện nhỏ là rất lớn với hơn 2.200 sông suối với chiều dài hơn 10km. Trong đó 90% là các sông suối nhỏ, đây là cơ sở thuận lợi cho phát triển thủy điện nhỏ. Tiềm năng kỹ thuật các thủy điện nhỏ quy mô dưới 30 MW khoảng 25 tỷ kWh/năm (gần 7.000 MW) và đến cuối năm 2018 đã có trên 3.300 MW thủy điện nhỏ được đưa vào vận hành như đã nói ở trên.

4.2 Tiềm năng điện năng lượng sinh khối:

    Là một nước nông nghiệp, Việt Nam có tiềm năng rất lớn về nguồn năng lượng sinh khối (NLSK). Các loại sinh khối chính là gỗ năng lượng, phế thải - phụ phẩm từ cây trồng, chất thải chăn nuôi, rác thải ở đô thị và các chất thải hữu cơ khác. Nguồn NLSK có thể sử dụng bằng cách đốt trực tiếp, hoặc tạo thành viên nhiên liệu sinh khối. Tiềm năng nguồn sinh khối từ phế thải nông nghiệp, chất thải chăn nuôi và rác thải hữu cơ có tổng công suất khoảng 400 MW.

    Khả năng khai thác bền vững nguồn sinh khối cho sản xuất năng lượng ở Việt Nam đạt khoảng 150 triệu tấn mỗi năm. Một số dạng sinh khối có thể khai thác được ngay về mặt kỹ thuật cho sản xuất điện, hoặc áp dụng công nghệ đồng phát năng lượng (sản xuất cả điện và nhiệt) đó là: trấu ở Đồng bằng sông Cửu Long, bã mía dư thừa ở các nhà máy đường, rác thải sinh hoạt ở các đô thị lớn, chất thải chăn nuôi từ các trang trại gia súc, hộ gia đình và chất thải hữu cơ khác từ chế biến nông - lâm - hải sản.

    Một số nhà máy đường đã sử dụng bã mía để phát điện, nhưng chỉ bán được với giá khoảng hơn 800 đồng/kWh (4 cent/kWh).

    Cuối năm 2013, Bộ Công Thương đã trình Chính phủ xem xét cơ chế hỗ trợ sản xuất điện từ năng lượng sinh khối. Theo đó, mức giá cao nhất mà ngành điện mua lại điện được sản xuất từ nguồn nguyên liệu sinh khối lần lượt là 1.200 - 2.100 đồng/kWh. Mức giá như đề xuất trên sẽ góp phần tạo động lực cho việc phát triển nguồn điện từ nguồn nguyên liệu sinh khối ở nước ta.

    Việc xây dựng các nhà máy điện đốt rác thải cũng đang được quan tâm với mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đặc biệt tại các thành phố, đô thị lớn. Hiện nay, tại nước ta đã có một số dự án điện đốt rác đã đi vào hoạt động, hoặc đang được triển khai xây dựng tại thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Hà Nam…

    Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020, có xét đến năm 2030 (Quy hoạch điện VII điều chỉnh, 2016) đặt ra mục tiêu và định hướng phát triển năng lượng tái tạo, cụ thể như: Ưu tiên phát triển nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo, tạo đột phá trong việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, góp phần bảo tồn tài nguyên năng lượng, giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường trong sản xuất điện; Mục tiêu cụ thể là ưu tiên phát triển nguồn năng lượng tái tạo cho sản xuất điện; tăng tỷ lệ điện năng sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo (không kể nguồn thủy điện lớn và vừa, thủy điện tích năng) đạt khoảng 7% năm 2020 và trên 10% năm 2030; Quy hoạch phát triển nguồn điện đẩy nhanh phát triển nguồn điện từ năng lượng tái tạo (thủy điện, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối...), từng bước gia tăng tỷ trọng của điện năng sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo trong cơ cấu nguồn điện, cụ thể như sau:

        1/ Ưu tiên phát triển các nguồn thủy điện, nhất là các dự án lợi ích tổng hợp (chống lũ, cấp nước, sản xuất điện); nghiên cứu đưa nhà máy thủy điện tích năng vào vận hành phù hợp với phát triển của hệ thống điện quốc gia nhằm nâng cao hiệu quả vận hành của hệ thống điện. Tổng công suất các nguồn thủy điện (bao gồm cả thủy điện vừa và nhỏ, thủy điện tích năng) từ gần 17.000 MW hiện nay (2016) lên khoảng 21.600 MW vào năm 2020, khoảng 24.600 MW vào năm 2025 (thủy điện tích năng 1.200 MW) và khoảng 27.800 MW vào năm 2030 (thủy điện tích năng 2.400 MW).

        2/ Đưa tổng công suất nguồn điện gió từ mức 140 MW hiện nay lên khoảng 800 MW vào năm 2020, khoảng 2.000 MW vào năm 2025 và khoảng 6.000 MW vào năm 2030.

        3/ Phát triển điện sử dụng nguồn năng lượng sinh khối: Đồng phát điện tại các nhà máy đường, nhà máy chế biến lương thực, thực phẩm; thực hiện đồng đốt nhiên liệu sinh khối với than tại các nhà máy điện than; phát điện từ chất thải rắn... Tỷ trọng điện năng sản xuất từ nguồn năng lượng sinh khối đạt khoảng 1% vào năm 2020, khoảng 1,2% vào năm 2025 và khoảng 2,1% vào năm 2030.

II.   PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO TRONG 5 NĂM VỪA QUA:



  Hình 5.1  Biểu đồ thể hiện sự chuyển đối cơ cấu năng lượng VIỆT NAM và đối chiếu với đề án quy hoạch điện 7 trong giai đoạn 2011-2020 (nguồn EVN 2020).     

    Việt Nam có tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo rất lớn, nhưng việc phát triển các nguồn điện này ở Việt Nam hiện nay vẫn còn chậm. Tính đến cuối tháng 6/2019, mới có 9 dự án điện gió với tổng công suất 304,6 MW được đưa vào vận hành, 82 dự án điện mặt trời với công suất 4.464 MW được đấu nối vào lưới điện quốc gia. Tuy nhiên, những khó khăn, thách thức về việc sử dụng đất, vốn, đấu nối, giải tỏa công suất, về hạn chế trong việc tiếp cận công nghệ mới và hiệu quả kinh tế, về nguồn dự phòng, về cơ chế chính sách, luôn đặt ra cho các nhà quản lý trong quá trình định hướng, xây dựng chính sách phát triển nguồn điện tái tạo

    Việt Nam có vị trí địa lý, đường bờ biển dài, đặc thù khí hậu nhiệt đới gió mùa và nền kinh tế nông nghiệp, có nguồn năng lượng tái tạo dồi dào và đa dạng, cho nên có thể khai thác cho sản xuất năng lượng như thủy điện, điện gió, điện mặt trời, sinh khối, địa nhiệt, nhiên liệu sinh học...


Hình 5.2  Bản đồ thể hiện tỉ trong năng lượng tái tạo (nguồn EVN 2020).  


III. KẾT LUẬN TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG

 TÁI TẠO VIỆT NAM TRONG 5 NĂM VỪA QUA:

    Để khuyến khích phát triển, phục vụ các mục tiêu nêu trên, Bộ Công Thương đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành hàng loạt các cơ chế khuyến khích cho điện mặt trời, điện gió, điện sản xuất từ chất thải rắn, điện sinh khối... Chính phủ cũng ban hành các chính sách ưu đãi khác cho các nhà đầu tư như ưu tiên cung cấp tín dụng, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất, sử dụng hợp đồng mua bán điện mẫu… Tuy nhiên, việc phát triển các nguồn năng lượng tái tạo trong thời gian qua vẫn tiếp tục đối mặt với một số bất cập và thách thức, như chi phí đầu tư còn cao, số giờ vận hành nguồn điện thấp, cơ sở hạ tầng lưới điện một số khu vực nhiều tiềm năng chưa sẵn sàng để giải phóng công suất, yêu cầu sử dụng đất lớn (nhất là các dự án điện mặt trời), các khó khăn trong điều khiển, điều độ hệ thống điện... đòi hỏi cần có những giải pháp để lần lượt giải quyết các bất cập này. 

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1/ Tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam, Cục thông tin khoa học và công nghệ Quốc gia (2015).

2/ Thách thức trong phát triển các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam, Ms. Angelika Wasielke, GIZ (2012).

3/ Công nghệ mới về nguồn - lưới điện, năng lượng tái tạo và hệ thống lưu trữ năng lượng, Tài liệu hội thảo quốc tế (2017).

4/ Đánh giá tiềm năng NLG tại Việt Nam. Thực trạng triển khai ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các giải pháp cho việc đầu tư các dự án NLG của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Đào Văn Tuân, VPI (2011).

5/ Nghiên cứu, lựa chọn giải pháp nối lưới và hoạt động hỗn hợp tua bin gió - nguồn phụ trợ vào lưới điện quốc gia và độc lập nhằm đảm bảo hoạt động ổn định, hiệu quả các dự án điện gió của PVN, Võ Hồng Thái, VPI (2013).

6/ nghiên cứu các giải pháp giảm giá thành sản xuất điện gió tại Việt Nam, Lê Việt Trung, VPI (2013).

7/ https://www.evn.com.vn/c2/nang-luong-tai-tao/Nang-luong-tai-tao-141.aspx

8/https://www.vietnamplus.vn/tiem-nang-va-co-hoi-phat-trien-dien-gio-dien-mat-troi-o-viet-nam/577040.vnp

 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH LỰA CHỌN MÁY BIẾN ÁP

TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG ĐIỆN VIỆT NAM

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH NĂNG LƯỢNG MẶT TRỜI TẠI VIỆT NAM